Theo
Thứ trưởng Nguyễn Trọng Đàm, ở Việt Nam, hiện số lượng các chương trình
TGXH và đối tượng bảo trợ xã hội đang tăng lên đáng kể. Một số chương
trình TGXH hỗ trợ trực tiếp bằng tiền mặt đã và đang được triển khai
thực hiện là Nghị định 67, Nghị định 13 về các chính sách trợ cấp xã hội
(hiện được thay thế bởi Nghị định 136); Quyết dịnh 239 hỗ trợ tiền ăn
trưa cho trẻ em 5 tuổi ở các cơ sở giáo dục mầm non... Ngoài ra, còn có
các chương trình dự án giảm nghèo, TGXH do các tổ chức phát triển, phi
Chính phủ tài trợ, các chương trình trợ giúp tiền mặt liên quan đến trẻ
em nghèo.
Hiện tại, mỗi chương trình được quản lý
độc lập bởi các bộ, ngành, cơ quan khác nhau và phần lớn dựa trên các
danh sách được duy trì thủ công trên Excel tại các cấp địa phương, chưa
có một chương trình nào xây dựng được một CSDL có quy mô toàn quốc hoàn
chỉnh. Sự phân mảng, trùng lặp về thông tin đối tượng dẫn tới không có
sự liên thông, chồng chéo giữa các chương trình. Nhiều hộ gia đình, cá
nhân là đối tượng của nhiều chương trình khác nhau.
Mặt khác, về cơ chế chi trả, hiện nay,
mỗi chương trình, chính sách sử dụng một kênh chi trả riêng do nhiều tổ
chức, cá nhân khác nhau thực hiện dẫn đến các bất cập như: Trong một
tháng một hộ gia đình có thể phải đi lại nhiều lần để nhận các khoản hỗ
trợ khác nhau; tiền chi trả trong nhiều trường hợp không kịp thời theo
nhu cầu của đối tượng thụ hưởng; không tách bạch rõ giữa công tác xác
định, quản lý đối tượng và công tác chi trả nên dẫn đến có những thất
thoát; cán bộ cơ sở do phải thực hiện việc chi trả nên không dành được
nhiều thời gian cho các nhiệm vụ chuyên môn.
Do vậy, việc xây dựng CSDL quốc gia về
TGXH trên CSDL quốc gia về an sinh xã hội là thực sự cần thiết cho việc
quản lý, điều hành, hoạch định chính sách đối với các lĩnh vực của Nhà
nước. Đồng thời, có sự thống nhất về quản lý các nhóm đối tượng bảo trợ
xã hội nằm trong diện hưởng chính sách bảo trợ xã hội như người cao
tuổi, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, người khuyết tật, người nghèo đơn
thân...
Thứ trưởng hy vọng, các đại biểu tham
dự hội thảo cần làm rõ nội hàm củ các vấn đề, cách thức phân công trách
nhiệm của từng đơn vị, giúp cho Ban Chỉ đạo Đề án và tiết kiệm chi phí
về tài chính cũng như nguồn nhân lực cho công tác chi trả.
Hiện nay, việc quản lý thông tin đối tượng BTXH gặp nhiều khó khăn, có sự chồng chéo giữa các bộ, ngành
Việc xây dựng CSDL quốc gia được thực
hiện nhằm quản lý thông tin của các nhóm dân cư dễ tổn thương nhất, bao
gồm hộ nghèo, cận nghèo, hộ sinh sống trong các vùn nghèo, vùng đặc biệt
khó khăn và các hộ có đối tượng bảo trợ xã hội. Trên nền tảng này, một
hệ thống thông tin quản lý (MIS) phù hợp sẽ được xây dựng với chức năng
tích hợp và quản lý dữ liệu phục vụ linh hoạt cho các cấp quản lý và
các ngành khác nhau. Toàn bộ hệ thống này (bao gồm CSDL quốc gia và hệ
thống MIS) gọi tắt là POSASoft để thực hiện mục tiêu Xây dựng Đề án CSDL
quốc gia về an sinh xã hội. POSASoft được thiết kế với nhiều modul chức
năng, được tích hợp sẵn và tổ chức tiếp tục bổ sung với các chức năng
nghiệp vụ chính như: quản lý, giám sát đối tượng; hỗ trợ chi trả; quản
lý khiếu nại và phản hồi; quản lý cộng tác viên; hoạch định chính sách;
chia sẻ thông tin...
Phạm vi hoạt động của CSDL quốc gia gòm 6
loại đối tượng là: Hộ nghèo và cận nghèo; đối tượng hưởng lợi của Nghị
định 136 (Nghị định 67/13 cũ); đối tượng được hỗ trợ chi phí học tập
theo Nghị định 49/74; đối tượng hưởng lợi của Quyết định 12; đối tượng
bổ sung của chương trình "Tạo cơ hội" và các cộng tác viên thôn, bản.
Trước mắt, CSDL quốc gia được thí điểm xây dựng tại 4 tỉnh, có phạm vi
lưu trữ trên 500.000 bản ghi hộ gia đình là Hà Giang, Lầm Đồng, Quảng
Nam và Trà Vinh. Sau năm 2015, cùng với kết quả của Tổng điều tra hộ
nghèo 2015 và kết quả rà soát đối tượng bảo trợ xã hội của các tỉnh,
CSDL sẽ được mở rộng trên toàn quốc với độ bao phủ thông tin của khoảng
6,3 triệu hộ gia đình.
Ở cấp trung ương, CSDL được cài đặt và
quản trị tập trung tại Trung tâm tích hợp dữ liệu của Bộ Lao động- TBXH
(Trung tâm Thông tin) với mục tiêu đảm bảo cao nhất mức độ tin cậy, tính
sẵn sàng của dữ liệu và cũng đảm bảo khả năng phục vụ việc kết nối của
người sử dụng để truyền dữ liệu. Cơ Đối với cáp tỉnh, khai thác kết nối
Internet sẵn có, thiết lập kênh mã hóa truy cập đến hệ thống ứng dụng
trung ương sử dụng ứng dụng client. Một tỉnh có một bản sao CSDL phục vụ
các mục đích riêng của địa phương.
Được biết, hiện ở nước ta, các phần mềm
liên quan trực tiếp tới lĩnh vực TGXH đã được triển khai gồm phần mềm
PoSoft phục vụ cho chương trình giảm nghèo và phần mềm quản lý đối tượng
bảo trợ xã hội theo Nghị định 136 (trước đây là Nghị định 67, 13).
Trong đó, phần mềm PoSoft cho Văn phòng Giảm nghèo được xây dựng nhằm hỗ
trợ công tác điều tra, rà soát và quản lý hộ nghèo tại các cấp địa
phương, làm căn cứ cho việc xây dựng và thực hiện hiệu quả các chính
sách phát triển kinh tế và an sinh xã hội của địa phương và cả nước.
Phần mềm quản lý đối tượng bảo trợ xã hội do Trung tâm Thông tin xây
dựng, có kiến trúc tương tự như PoSoft và đã được triển khai tại một số
địa phương, song chưa có CSDL được cập nhật lên. Phần mềm hiện tại quản
lý đầy đủ các tiêu chí thông tin nghiệp vụ nên không đáp ứng được các
yêu cầu báo cáo. Do vậy, tính phổ cập phần mềm bị hạn chế và các tỉnh
hiện đang sử sụng biểu mẫu Excel để duy trì dữ liệu và tạo báo cáo thay
cho phần mềm.
Thu Hương